🌒 Con Ong Đã Tỏ Đường Đi Lối Về

Tôi đã đi theo con đường ĐỨC CHÚA sai tôi đi. Tôi đã đưa A-gác, vua A-ma-lếch về, và đã tru hiến A-ma-lếch. 21 Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông lối đi khác nhau trong một khu rừng, một lối xa hơn và một lối gần bên cạnh."Tiếc rằng ta không thể chọn cả hai" nên nhà thơ sau khi "đứng một thời gian dài" đã chọn lối gần là con "đường nhiều cỏ, lối mòn như chưa có". Đau xót và tủi nhục, nàng đã tự tử ở sông Tiền Đường nhưng lại được sư Giác Duyên cứu sống. Kim Trọng và gia đình Thúy Kiều đi tìm. Sau mười lăm năm trời lưu lạc, Kiều trở lại sum họp với gia đình. Nàng từ chối không chắp nối mối duyên xưa cùng Kim Trọng mà họ trở thành bạn bè để giữ tình cảm cho được trong sáng và đẹp đẽ. David đã ngủ ngon đêm hôm ấy, lòng lấy làm thoả mãn khi cho rằng mình đã giải quyết được một vấn đề khá nan giải. Ông đã tức điên lên được khi sáng hôm sau tôi tớ đến báo rằng "Uri không về nhà mình", mà đã "ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua" (các câu Lời Chúa THỨ BA TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN. "Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong…. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy." (Mc 7,13-14) "Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong…. Còn cửa Khi ong đã tỏ đường đi lối về Hải Du vẫn lang thang qua những con phố đã lác đác lên đèn, cố gắng tìm kiếm điều gì đó chẳng thể định hình được. Suốt trưa cà phê tán gẫu với đám bạn chỉ giúp cô tạm quên đi những điều không nên nhớ. Nhưng lúc này đây, vẫn là sự trống trải không gì bù lấp nổi. Cô vẫn đang cô đơn. Phải, cô vẫn rất cô đơn. Đường đi lối lại và người đi trên đường là một đối tượng nghiên cứu thú vị của khoa Nhân học. Xã hội phong kiến phương Đông hay xã hội thời Trung cổ phương Tây có nhiều nét đặc biệt về giao thông, mà đã lâu người ta không quan niệm được nữa. 1. Khi gặp được Chúa rồi, các nhà chiêm tinh đã được biến đổi trong đời sống nên các ông lên đường trở về theo lối khác. Cuộc gặp gỡ Hài Nhi, gặp gỡ Thiên Chúa đã đem lại cho các ông một cuộc đời mới. Đời họ đã chuyển sang một hướng khác. Họ không đi về hướng cũ có sự truy lùng của Hêrôđê. Hóa ra, tôn giả Mahā Moggallāna biết được ý nghĩ độc ác của rồng chúa. Lại nữa, tâm địa của loài rồng này ngài không lạ lùng gì, nên đã sử dụng một loại thần thông thật cao siêu: Ngài không hề nhỏ lại mà lỗ tai của rồng chúa cũng không hề lớn ra! Thế rồi, ngài tạo một đường kinh hành, đi xuyên qua pxkEnL. Tâm sự Thứ tư, 25/8/2010, 1836 GMT+7 Chuyện của mình và bạn giống nhau 99% đấy, chỉ khác là mình yêu đến 9 năm. Sau đó, mình đã chia tay và hiện nay đã lấy chồng. Mình nhiều lúc suy nghĩ lại "Nếu ngày xưa mình trao đời con gái cho anh chàng người yêu 9 năm của mình thì bây giờ chuyện gì xảy ra?". Lam Ngoc> Người yêu thay đổi vì không được thỏa mãn From Lam Ngoc Sent Saturday, August 21, 2010 915 PM Chào bạn, Mình rất thông cảm khi nghe câu chuyện của Lan. Thật sự, hoàn cảnh của bạn, mình từng trải qua. Mình cũng đã có mối tình 9 năm và những tình tiết giống y hệt như bạn. Chúng mình yêu từ lúc học lớp 10, trải qua suốt thời sinh viên với nhau. Rồi ra trường cả 2 đều có việc làm ổn định. Mình giục cưới, nhưng anh ấy cứ nói còn phải lo thăng tiến trong công việc. Mấy lần mình cũng bắt gặp anh đi cặp kè với mấy cô khác và cũng cãi vã, cũng thề thốt y như anh người yêu của bạn. Thực sự, chuyện của mình và bạn giống nhau 99% đấy, chỉ khác là mình yêu đến 9 năm. Sau đó, mình đã chia tay và hiện nay đã lấy chồng. Bạn ơi, người như vậy không xứng đáng để bạn yêu đâu. Nếu anh ấy yêu bạn thực sự thì đã kết hôn với bạn từ rất lâu rồi. Người đàn ông có trách nhiệm là phải có ý thức xây dựng gia đình với người mình yêu để có thể ở bên nhau suốt đời và chăm lo cho người yêu mình. Bạn ơi, có những lúc mình cũng ân hận vì nghĩ mình phụ tình anh ấy, tình yêu 9 năm sâu sắc lắm biết bao vui buồn, nhưng mình đặt trường hợp khi con ong "đã tỏ đường đi lối về" thì anh ấy còn tôn trọng mình không? Bạn ơi, đàn ông ai cũng vậy, nhất là đàn ông Á đông, đa phần họ đều muốn chiếm đoạt thân xác của người yêu, nhưng khi cưới thì họ sẽ chọn một cô gái còn trinh, xinh xắn, trẻ đẹp hơn người yêu cũ. Họ rất quan trọng chữ trinh bạn à. Thật sự, rất hiếm đàn ông có trách nhiệm sau khi họ đã quan hệ thể xác với bạn. Bạn đừng dại dột tin lời anh ấy để rồi trao thân cho anh và cả cuộc đời bạn sẽ phải phụ thuộc vào một kẻ ngụy quân tử. Mình rất thông cảm với bạn, mình nói thật đến bây giờ mình cũng không thể nào quên mối tình đầu rất đẹp đó, nhưng thà chia tay nhau để còn có cái gì tốt đẹp cho nhau còn hơn sau này mình hận anh ấy đến muôn đời. Mình mong bạn sớm có quyết định sáng suốt. Cuối cùng mình khuyên bạn một câu, tình yêu không phải là thời gian dài là yêu nhiều đâu, càng yêu lâu, người ta càng nhàm chán nhau và người ta chỉ muốn chiếm đoạt thân xác mà thôi. Mình là con gái, phải giữ cái ngàn vàng và chỉ trao đúng cho người chồng của mình mà thôi. Hiện giờ mình có cuộc sống rất hạnh phúc vì chồng mình rất yêu thương và tin tưởng mình chính vì mình đã trao cho anh cái ngàn vàng của đời con gái trong đêm tân hôn đấy bạn à. Mình nhiều lúc suy nghĩ lại "Nếu ngày xưa mình trao đời con gái cho anh chàng người yêu 9 năm của mình thì bây giờ chuyện gì xảy ra?". Mấy câu thơ Bùi Giáng Em về giũ áo mù sa Trút quần phong nhuỵ cho tà huy bay... Sao thế nhỉ? Có ánh tà huy nào khép nép sau lớp quần phong nhuỵ vậy? Cũng cùng một nhà thơ, cái e ấp, cái tà huy phong nhuỵ ấy cơ hồ là dáng vẻ khép nép, bỡ ngỡ của riêng một lần đầu Mặc người mưa Sở mây Tần Riêng mình gìn giữ một lần đầu tiên... Nhưng Kiều ­ như đoá trà mi tiếc nuối của Nguyễn Du ­ có được riêng mình gìn giữ thế đâu? Tiếc thay một đoá trà mi / Con ong đã tỏ đường đi lối về... Kiều vùi hoa dập liễu, Kiều chán chê mưa Sở mây Tần, những mười lăm năm trời, vậy mà, vẫn có thể ngửng đầu với Kim cái ngày hạnh ngộ Chữ trinh còn một chút này... Rồi người sương phụ lay lắt lửa lòng của Nguyễn Bính một đêm đông lạnh lẽo. Một bước đi thôi, một bước nữa, trong những lời thầm thủ thỉ bên con Gái goá qua đò uổng tiết trinh. Cái sự trinh trắng ngày xưa đâu còn nữa Màu hồ đã mất đi rồi/ Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma... “Màu hồ” đã mất, có giữ thì cũng chẳng biết giữ cái gì; bà, ví như Caesar lúc đã qua bên kia sông Rubycon, không còn sợ hãi những tiếng điều thế gian gì nữa. Rồi Loan - oạn Tuyệt - Nhất Linh. êm động phòng hoa chúc nhìn Thân, người chồng mình không hề yêu, loay hoay với mảnh vải trắng trên tay mà lòng tự nhủ lấy lòng, khinh bỉ Chỉ có sự trinh trắng của tâm hồn mới là đáng quý... Loan, như vậy, có trắng cũng chỉ là trăng trắng ở màu thể xác, còn tâm hồn, cái cho là đáng quý, đã vẩn đục mất rồi; chỉ có một Thân ngu đần và hủ lậu kia mới hí hửng với mảnh vải nhuốm màu mong đợi trong tay... Sao mà rắc rối? Tiếc thay. Mất rồi. Uổng. Làm đầu. Tâm hồn. Thể xác. áng khinh. áng quý. Rồi những triết lý nhân gian Chính chuyên chết cũng ra ma / Lẳng lơ chết cũng khiêng ra ngoài đồng; những ma chước, như một thứ cạm đời Nước vỏ lựu, máu mào gà / Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. Chữ trinh, từ những chuyện đời hư thực như thế, đã nói lên cái gì đó vừa tượng trưng vừa cụ thể. Tượng trưng như những gì diễn ra trong đầu Loan đêm tân hôn, như “chút này làm ghi” của Kiều sau mười mấy năm lăn lóc. Cụ thể như mảnh vải trắng nhuốm màu mong đợi trong tay Thân sau đêm tân hôn, như cái sự thông tỏ đường đi lối về của đoá trà mi tiếc nuối, như bát nước vỏ lựu máu mào gà mượn màu chiêu tập, như cái chắt lưỡi tiếc rẻ cho một lần qua đò dang dở đời sương phụ... Tượng trưng, nó thuộc về ý thức Kiều bao giờ cũng nghĩ về Trọng Vui là vui gượng ấy mà/ Ai tri âm đó mặn mà với ai; Loan bao giờ cũng hướng về Dũng, ngay cả lúc cuộn mình trong vòng tay siết chặt của Thân. Cụ thể, như cái bức màn sinh học phân biệt con gái và đàn bà. Nhớ, một nhân vật lẳng lơ của Maxim Gorki Gái tơ mà biết ngượng / Sao trở thành đàn bà? Vượt qua bức màn ấy, cô gái trinh trắng đã trở thành một con người khác hẳn và đánh mất nét e thẹn của một lần đầu tiên; như là danh tướng Caesar bên này bờ Rubycon, hãy còn do dự; bước qua bờ bên kia, đã là một người quyết đoán. Tuy nhiên, trong thuở hồng hoang, ý thức về bức màn Rubycon mỏng manh ấy lại là cái gì đó khác hẳn! Khi nhân loại còn bị nữ giới ngự trị trong tín ngưỡng phồn thực, thân xác nữ giới, với họ, đã gói ghém gần như trọn vẹn những bí ẩn của một vũ trụ vô cùng tận. Trông cứ như một thiên nhiên huyền bí con người cũng từ đó mà ra, những mầm sống mong manh cũng nhờ đó mà duy trì, những chu kỳ thiên nhiên như chu kỳ mặt trăng cũng vào đó bày biện 1. Nhân loại cảm thấy e dè và sợ hãi. Tuy nhiên dục vọng, cái khó mà chế ngự, lại làm họ điên đảo. Một bên là tín ngưỡng họ kính cẩn và sợ hãi; một bên là bản năng họ tự dày vò vì thèm khát; và rồi, như một giải pháp trung dung, họ cụ thể hoá niềm e sợ ở một phần nhất định của cơ thể và ở một giai đoạn nhất định trong những chu kỳ sinh lý. Phần cơ thể ấy là bức màn Rubycon mỏng manh, giai đoạn sinh lý ấy là những ngày Rubycon hối hả tuôn trào 2. Như thế, với họ, cái mà đời sau cho là biểu tượng của sự ngây thơ trong trắng trông sao nhờn nhợn, trông sao ghê ghê và sờ sợ. Họ tưởng tượng nên con rắn vô hình đang trú ngụ bên trong và nó sẽ vùng vẫy cắn xé khi bức màn bị tàn phá. Lúc đó, với nam giới, người bạn đời lý tưởng của họ phải là một đoá trà mi đã thông tỏ đường đi lối về hoặc là những goá phụ, hoặc là kẻ từng trải kinh nghiệm chứ không thể là những thiếu nữ ngây thơ trinh trắng. Marco Polo, trong cuốn phiên lưu ký để đời, đã kể lại cảnh tượng những thanh niên Tây Tạng đây đẩy từ chối, không chịu làm chồng trinh nữ. Và như thế, những đoá trà mi! ể thông tỏ đường đi lối về, họ phải nhờ cậy đến những quyền năng siêu nhiên nào đó viên tù trưởng, vị pháp sư hay thậm chí những ngẫu tượng dương vật bằng gỗ hay bằng đá tại các đền thờ. Tại Malabar Coast, những thiếu nữ sắp lấy chồng phải sính lễ cầu xin để được những pháp sư “hái hoa” trước lễ thành hôn; trong xã hội La Mã cổ đại, trước khi về nhà chồng, các cô dâu phải trải qua nghi thức dâng hiến với những ngẫu tượng dương vật tại các đền thờ trước đã! Qua cái thuở hồng hoang, vai trò của nữ giới lại bị hạ bệ cùng với sự hình thành của trật tự phụ quyền. Những gì gọi là huyền hoặc và bí ẩn trong thân xác họ đã dần dà hé mở nét bí ẩn đã nhạt thì nét đe doạ cũng nhạt theo. ể rồi, khi nam giới vươn lên nắm lấy vai trò tối thượng ở gia đình và ở xã hội, khát vọng chủ nhân lại bừng lên cả ở quan hệ nam-nữ bây giờ những tấm thân kia phải thuộc về họ, thuộc ngay từ đầu, và như thế, cách yên tâm nhất là phải đoan chắc rằng nó không qua tay kẻ khác. Chữ trinh ra đời. Khởi đầu với khát vọng làm chủ thật tuyệt đối như thế, chữ trinh lại thăng hoa với những lạc thú khám phá. Trong tình trạng quần hôn thời nguyên thủy ­ qua những quan hệ tình dục phi quy ước và vô trật tự ­ con người có thể thoả mãn nhu cầu sinh lý một cách tự nhiên như thể hít, thở hay ăn, uống. Với một nguồn thoả mãn ê hề ­ lúc nào cũng sẵn có, lúc nào cũng có thể tiến hành, và có thể tiến hành ở bất cứ nơi đâu ­ những khoái lạc tìm thấy cơ hồ chỉ là những rung động sinh học và thuần tuý vật chất. Tuy nhiên, khi bản chất rừng rú ở con người nhạt dần đi, ràng buộc trinh tiết mới nẩy sinh và bức màn ấy dần dà gắn bó với những ý nghĩa tượng trưng. Từ đây, cái sự khám phá thân xác nữ giới lại phát sinh những cảm hứng phần nào mang tính sáng tạo. Khám phá một thân thể e ấp, họ có cái ngất ngây của nhà chinh phục khi chinh phục được đỉnh cao chưa ai từng chinh phục, như nhà thám hiểm khám phá vùng đất chưa ai từng khám phá, hay như nhà thiên văn khám phá vì sao chưa ai hề biết đến. Trong sự chinh phục đó, nhà lực sĩ leo núi sẽ miên man cái cảm giác chủ nhân ông ở đó cái đỉnh núi kia đã thuộc về riêng mình. Khám phá một vùng đất và tự tay mình ghi lại dấu vết của sự thay đổi ấy mới đích thực là sự khám phá. Khám phá khối xác thịt còn e ấp như đoá hoa phong nhuỵ và tự mình ghi lại dấu vết thay đổi khi biến cô gái ngây thơ thành một con người khác hẳn, gã đàn ông mới đạt được những cảm giác về một sự sở hữu vĩnh viễn và máu thịt. Trinh tiết, như thế, rõ ràng, là một khái niệm áp đặt, một ý thức áp đặt, hay, nói cho cùng, một... lý thuyết áp đặt. Theo từng thời đại con người thi nhau chất chồng lên trên bức màn trinh tiết mỏng manh ấy bao nhiêu là áp lực tín ngưỡng, áp lực xã hội, hay áp lực ý thức. Ngày nào, nó là con sông Rubycon đáng sợ mà gã đàn ông ngần ngừ không dám vượt, phải mượn đến những quyền năng cho là siêu nhiên; rồi nó là con sông Rubycon vô giá mà thiếu nữ chần chờ hồi hộp cho “một lần đầu tiên”; rồi nó khô khốc cạn láng theo chân những nhà nữ quyền thuộc hạng quá khích nhất. Bởi, theo họ, những nhà nữ quyền, đấy chính là sự thống trị của nền độc tài dương vật chế phallocratic. Nam giới, theo họ, trong khi không bị ràng buộc bởi sự e ấp phong nhuỵ nào, đã bày đặt nên bao nhiêu là ràng buộc luân lý để ép buộc phái yếu “gìn giữ” cho mình “một lần đầu tiên”? Và họ phản kháng. ầu tiên là những hình thức gian lận, như cái màu chiêu tập vỏ lựu mào gà; rồi họ sổ toẹt, qua những phong trào mệnh danh “giải phóng”, ầm ĩ cả nền văn minh hiện đại từ cuối thập niên 60. Văn chương, mường tượng như một thiếu nữ quyến rũ e ấp, cũng thế. ể hấp dẫn mời gọi, để thực sự là một “khám phá” trong cả sự viết lẫn sự đọc, nó phải e ấp và phong nhuỵ như một cô gái mới lớn và trinh trắng. Tuy nhiên, một lần khám phá là một lần bước qua cái thời kỳ e ấp như đoá hoa phong nhuỵ; khi những thế hệ viết và đọc đã bước qua giai đoạn ngất ngây khám phá, ấy chính là lúc cô gái văn chương hết còn trinh trắng, ngây thơ. Như thế, văn chương phải liên tục chuyển mình và hoá thân. Nó cần lột xác trong những ý thức thẩm mỹ mới để hoá thân thành một cái gì đó khác hơn, mới hơn chứ không loay hoay mượn màu son phấn chắp vá chút xuân thì. Nghĩa là một sự thất tiết với khái niệm tiết liệt cũ kỹ để trinh trắng và e ấp mời gọi trong một hình hài trẻ trung. Chỉ một bức màn mỏng manh trên thân thể con người mà còn phải băng qua bao nhiêu là sức nặng của ý thức hệ, từ thời kỳ phồn thực - mẫu hệ cho đến sự khe khắt đạo đức của văn hoá phụ quyền hay những làn sóng nữ quyền tiếp nối nhau; văn chương còn trải bao nhiêu bước đường ý thức như thế trên hành trình đi tìm cái đẹp? Trong hành trình ấy, văn chương Việt Nam, lạ thay, cứ bị níu kéo trong vai cô trinh nữ già thủ tiết một trinh nữ tuổi đã về chiều mà phải đỏng đảnh vờ vịt những bộ điệu ngây thơ của cái thuở ban đầu. Õng ẹo với những âm điệu Nguyễn Du, với âm điệu Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư hay những cánh bướm chập chờn mơ tiên trong không khí Tự Lực Văn oàn. Nhưng, nói theo Simon de Beauviour, sự quyến rũ của trinh tiết bao giờ cũng đố kỵ với tuổi tác vì không có gì chán chường bằng bộ điệu õng ẹo của những trinh nữ tuổi già. Như một căn nhà trên một đỉnh đồi vắng lặng nhưng còn thơm mùi gạch mới, có thể nó sẽ gợi chút gì đó gọi là thơ; nhưng khi đã trơ gan ở đó hàng thế kỷ không một bóng người, nó sẽ gợi nên những ấn tượng về một căn nhà quỷ ám. Cái đẹp, cái hấp dẫn bao giờ cũng chỉ lôi cuốn ở khía cạnh dâng hiến chứ không mời gọi ở khía cạnh bảo tồn, để quyến rũ như một thiếu nữ mới lớn và trinh trắng, văn chương không thể nào đóng vai một cô gái già thủ tiết. Mà có đóng chăng thì đấy đâu phải là một sự thủ tiết hayï trinh trắng vẹn toàn? Có chăng, đấy chỉ là màu trinh tiết làm nên từ bát nước vỏ lựu hoà máu mồng gà tự huyễn hoặc chính mình trên một hình hài đã trầy trụa bao nhiêu dấu vết lang chạ. Nó đã thất tiết với Trung Hoa để trở thành một trinh nữ mời mọc ở Nguyễn Du; rồi nó thất tiết với Tây Phưong để trở thành một thiếu nữ Hà thành mời mọc trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ ể hấp dẫn và mời gọi, văn chương phải hoá thân mời mọc qua những chu kỳ thất tiết và... trinh trắng như thế e ấp phong nhuỵ ban đầu, nó phải thất tiết với cái đã bước qua rồi để trẻ lại trong một thân xác và linh hồn mới; bởi, như đã nói, cái đẹp bao giờ chỉ lấp lánh ở khía cạnh dâng hiến chứ không mời gọi ở khía cạnh bảo tồn... Với tác giả hay tác phẩm, từng tác phẩm hay từng tác giả, sự thể cũng vầy vậy cả thôi. Bởi, xét cho cùng, người đọc, những kẻ chỉ biết có thưởng thức, cũng bạc tình có khác nào mấy con ong ơ thờ bên cánh hoa xưa khi đã thông tỏ lối về? Tác giả cần thất tiết với chính hình bóng cũ của mình đã đành, tác phẩm cũng thế, thậm chí với từng tác phẩm. Như những trinh nữ e ấp và phong nhuỵ, một lần đến với người đọc là một lần nó hiến dâng mời mọc, là một lần gọi mời khám phá; tác phẩm chỉ có thể sống mãi bằng khả năng dâng hiến phong phú của mình, đó là khả năng mở ra những hướng cảm thụ khác nhau, trên những đưòng đi lối về chập chùng ẩn hiện chưa từng thông tỏ khác nhau. Không thế, chỉ cần cù lấy công làm lời, chỉ suông đuột và mẫu mực như bài giảng của nhà mô phạm, chính tác giả chứ không ai khác đã đưa tác phẩm của mình vào một ngõ cụt của sự thờ ơ và quên lãng. Sydney 4. 2001 Chú thích và tài liệu tham khảo []- Burton, C. 1985. Subordination - Feminism anh Social Theory. Sydney George Allen & Unwin []- de Beauvoir, S. 1972. The Second Sex. Melbourne Penguine Book tr. 184-1850. []1 & 2. Xin nói rõ thêm là sự trùng hợp giữa chu kỳ kinh nguyệt và chu kỳ mặt trăng đã làm người tiền sử sợ hãi và tôn thờ; chỉ sau này khi bí mật đã hé mở và nam giới đã có thể lấn tới, hiện tượng này mới trở nên cấm kỵ. Tục cắt đầu dương vật cho chảy máu của thổ dân Úc là một nỗ lực bắt chước hiện tượng này của phụ nữ. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lòng. Vì vậy đối với bài bình luận này, hy vọng nhà thơ Vương Trọng sẽ mang lại hứng thú cho học sinh, sinh viên học văn, thầy giáo, cô giáo dạy văn cũng như bạn đọc mê Truyện Kiều. Đang xem Con ong đã tỏ đường đi lối về Bình luận một số câu thơ trong Truyện Kiều 1 – Sống làm vợ khắp người taHại thay thác xuống làm ma không chồng. Đây là lời Thuý Kiều thốt lên sau khi nghe Vương Quan kể chuyện bi thảm của Đạm Tiên bên ngôi mộ “sè sè nấm đất”, “dàu dàu ngọn cỏ”, lạnh lẽo cả trong tiết Thanh minh. Đạm Tiên trước, Thuý Kiều sau; ca nhi ngàn xưa và “ca-ve” ngày nay có chung một đặc điểm Đấy là những người con gái tạo hoá ban cho một chút nhan sắc nhưng lại giáng xuống bản thân hoặc gia đình họ những tại hoạ, buộc họ phải gánh chịu, đưa đẩy họ vào chốn lầu xanh, mất quyền làm người, trở thành một món hàng. Vì có chút nhan sắc nên lắm chàng tìm đến; bởi đã trở thành món hàng nên mình không có quyền chọn lựa mà để người ta cư xử với mình như với một món hàng đã bỏ tiền mua. Câu thành ngữ mới “trả tiền bóc bánh” phần nào nói được thái độ cư xử thô bạo, không chút tình cảm của khách làng chơi đối với các cô gái lầu xanh. Đời người một kiếp ca nhi chung chạ với bao người đàn ông, biết mặt không biết tên, “mặc người gió Sở mưa Tần”, xong cuộc, họ bỏ đi không để lại dấu vết, chứ có mấy ai được như chàng Thúc “trước còn trăng gió sau ra đá vàng”! Những đôi lứa yêu nhau chân thành, vì nguyên do nào đó không lấy được nhau, khi chết đi họ còn mang theo cả khối tình xuống chốn tuyền đài. Tình yêu là thế, còn tình dục chỉ là sự thoả mãn xác thịt nhất thời, kiếp này chẳng yêu thương, nói chi đến kiếp sau. Cặp lục bát này về hình thức, là sự đối lập giữa lúc sống và sau khi chết. Nhưng sự đối lập ấy chỉ là hình thức, còn thực chất đó là quan hệ nhân quả khi sống thế thì sau khi chết phải thế! Trong toán học cao cấp có khái niệm “trù mật khắp nơi” và “không đâu trù mật” để nói về hai cực đối lập của sự phân bố các phần tử của tập hợp. Ở đây, hình như Đại thi hào vô hình trung cũng sử dụng khái niệm ấy để nói về “sự phân bố chồng” của kiếp ca nhi ở cõi dương và ở cõi âm khi sống thì ở đâu cũng có chồng, bất cứ người đàn ông nào cũng có thể là chồng, còn chết rồi thì ngược lại không có một ai. Nói “làm ma không chồng” là dự đoán sự cô quạnh khi mình ở cõi âm từ thực tế của kiếp này. Sự thật nghịch lý và bi kịch của kiếp ca nhi chẳng cần đợi đến khi đã “thành ma”, chẳng cần đợi kiếp sau, mà ngay ở kiếp này Khi mình còn nhan sắc thì “xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh”, đến khi đau yếu, bệnh tật thì không kẻ đoái hoài, chết một mình một góc, đâu phải chỉ một Đạm Tiên? “Sống làm vợ khắp người ta” đã nhục, đã khổ lắm rồi, người ca nhi nào cũng chung ý nghĩ “cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”, cho hết thời trẻ trung, cho hết cuộc đời, tưởng khi mình chết đi thì mới được thanh thản. Nhưng không, sự sỉ nhục của kiếp phong trần không chỉ dừng lại trần thế, mà còn theo về cõi âm với một biến tướng mới, về hình thức tưởng như ngược lại những gì ca nhi đã trải, nhưng không hề mang lại niềm vui mà chỉ chuốc lấy nỗi bất hạnh mới thật tệ hại làm ma không chồng! “Sống làm vợ khắp người ta”! Chữ “khắp” mới thật tài tình, hàm chứa sự xô bồ, không hề có sự chọn thường chữ khắp thường đặt trước một danh từ chỉ nơi chốn khắp chợ, khắp đồng, khắp làng, khắp nước… Ở đây Nguyễn Du đã thay đổi cách sử dụng quen thuộc đó, mạnh dạn đặt sau chữ khắp hai chữ người ta thật mới mẻ và bất ngờ. Khắp người ta không loại trừ một loại người nào. Có soạn giả Truyện Kiều không tán thành khái niệm vợ, chồng đối với các cô gái lầu xanh vì vợ chồng thì phải có hôn thú ! nên muốn đề nghị đổi chữ khắp thành chữ chắp vợ chắp người ta! với lý luận rằng cô gái lầu xanh chỉ là vợ chắp, chứ không thể là vợ của khách làng chơi được! Về luật pháp thì phần nào soạn giả này có lý, nhưng đối với việc thẩm định Truyện Kiều nói riêng và thưởng thức thi ca nói chung thì, ý kiến ấy xem ra quá cứng nhắc, khó thuyết phục được ai. Tham khảoBình luận câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung/Cuộc đời và sự nghiệp tác giả Nguyễn Du Nguyễn Du không đợi giấy hôn thú để chỉ khái niệm vợ chồng ở chốn thanh lâu, mà sử dụng đặc trưng lớn nhất của vợ chồng là chuyện chăn gối. Đó là chưa kể ở chốn thanh lâu người ta vẫn quen xưng “chàng chàng, thiếp thiếp” Chàng chàng thiếp thiếp vui bằng được / Bố bố con con chẳng nhận ra – Nguyễn Bính ngày xưa và “vợ vợ, chồng chồng” ngày nay, mà ai cũng hiểu rằng “chàng thiếp”, “vợ chồng” ở đây khác xa khái niệm vợ chồng truyền thống. Phải chăng cặp lục bát này đã phơi bày bi kịch lớn nhất của kiếp ca nhi? 2 – Một mình lưỡng lự canh chầyĐường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Ngày đi chơi Thanh minh gặp mộ Đạm Tiên, đêm Đạm Tiên báo mộng cho biết mình có tên trong sổ đoạn trường, Thuý Kiều “trằn trọc canh khuya”, sụt sùi kinh hãi cho cuộc đời sau này của mình. Trước đó, bên mộ Đạm Tiên, sau khi nghe Vương Quan kể về bi kịch của cô ca kỹ này, Thuý Kiều đã vận vào mình “thấy người nằm đó biết sau thế nào”. Định mệnh là tư tưởng quán xuyến trong Truyện Kiều. Có người dẫn câu “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” để kết luận Nguyễn Du chống lại tư tưởng định mệnh, mà quên rằng câu trích kia không phải là lời tác giả Truyện Kiều, mà là lời của chàng Kim nói lại khi thấy Thuý Kiều quá tin vào tướng, số. Còn cụ Nguyễn Du thì sao? “Cho hay muôn sự tại trời” là kết luận Truyện Kiều cũng là nói lên nhận thức của tác giả. Nhưng trong Truyện Kiều, người tin vào tiền định, vào định mệnh mà bạn đọc dễ nhận biết nhất chính là Thuý Kiều. Cảm thương kiếp Đạm Tiên, đâu chỉ là tình thương đối với người ca nhi bạc mệnh, mà chính Thuý Kiều thương cho mình vì quá khứ của Đạm Tiên chính là “nỗi sau này” của Thuý Kiều. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng hơn 60 lần chữ nỗi, ngoài những kết hợp quen thuộc như nỗi lòng, nỗi riêng, nỗi niềm, nỗi quê …còn có những kết hợp hết sức mới mẻ như nỗi đêm, nỗi ngày nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung, đặc biệt ý nghĩa chữ nỗi được mở rộng ra với “nỗi dọc đường”, và ở đây là “nỗi sau này”. Trong cái đêm “trằn trọc canh khuya”, “lưỡng lự canh chầy”, “nỗi sau này” của Thuý Kiều chưa hề cụ thể, mà chỉ từ cuộc đời của Đạm Tiên mà suy ra cho thân phận của mình. “Nỗi sau này” là nói về điều kinh hãi đang bày sẵn ở phía tương lai, và khi trở thành thực tại thì đó là “Hết nạn nọ, đến nạn kia / Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần / Trong vòng giáo dựng gươm trần / Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi…” như lời sư Tam Hợp đã tổng kết lại. Ở đây sự kinh sợ “nỗi sau này” của Thuý Kiều được tác giả đồng cảm, và diễn biến của phần lớn Truyện Kiều như cốt để chững minh cho “nỗi sau này” đó đáng sợ đến dường nào. 3- Dặm khuya ngất tạnh mù khơiThấy trăng mà thẹn những lời non sông. Xem thêm Với Thuý Kiều, đêm trongTruyện Kiều thường có trăng. Đó là “gương nga chênh chếch nhòm song” đêm Đạm Tiện hiện về báo mộng; “nhặt thưa gương dọi đầu cành” và “vầng trăng vằng vặc giữa trời” đêm tự tình và thề bồi cùng Kim Trọng;“ gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương” đêm lẻn trốn cùng Sở Khanh; “một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời” đêm ở Lâm Tri nhớ Thúc Sinh; “lần đường theo ánh trăng tà về tây” đêm trốn ra khỏi Quan Âm các; “mảnh trăng đã gác non đoài” đêm nàng nhảy xuống sông Tiền Đường… Còn vầng trăng xuất hiện trong cặp lục bát trên kia là trong đêm trên đường nàng theo xe cùng Mã Giám Sinh đi từ quê Bắc Kinh về tận Lâm Tri. Thấy vầng trăng ấy, Thuý Kiều đã liên tưởng đến vầng trăng nào mà thẹn? Tất nhiên nàng không thể nghĩ về những vầng trăng về sau, vì khi đó nàng chưa từng được chứng kiến. Nàng cũng không nghĩ về vầng trăng đã dẫn Đạm Tiên về báo mộng cho mình, mà chắc chắn nàng nghĩ về vầng trăng có liên quan đến kỷ niệm, đến mối tình với chàng Kim, đấy là “vầng trăng vằng vặc giữa trời” của đêm thề bồi, hẹn ước. “Lời non sông” là lời gì vậy? Cũng như “lời vàng đá”, “lời non sông” là lời thề bồi tình yêu của các cặp tình nhân ngày xưa, vì khi thề họ thường mượn những vật thể to lớn như núi sông, quý giá và chắc chắn như vàng đá để nói tình yêu của mình. Ta điểm lại xem “những lời non sông” của Kim, Kiều như thế nào? Dưới vầng trăng vằng vặc đêm ấy, hai mặt một lời, họ đã thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”, hứa “chạm xương khắc cốt” tình cảm của nhau, “chữ đồng là nói tắt chữ đồng tâm, nghĩa là cùng một lòng yêu nhau” như học giả Đào Duy Anh giải thích. Chàng Kim đã thề với Thuý Kiều Ví dù giải kết đến điềuThì đem vàng đá mà liều với thân. Nghĩa là đã yêu nhau rồi, đính hôn rồi ,vì lẽ gì đó mà trời xanh bắt chia lìa thì xin chết với nhau bởi coi lời thề như vàng đá. Khi chia tay Thuý Kiều để về hộ tang chú, chàng Kim cũng từng nhắc đến vầng trăng thề bồi ấy Trăng thề còn đó trơ trơDám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Khi đó, chính Thuý Kiều đã hứa Đã nguyền đôi chữ đồng tâmTrăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai… Thế mà giờ đây, không giữ được lời thề, nàng đã thành vợ người khác rồi, thì không hổ thẹn sao được? Từ Bắc Kinh, Thuý Kiều phải đi xe suốt một tháng ròng mới đến Lâm Tri. Trên đường đi, đêm khuya bất chợt nàng thấy vầng trăng mà thẹn cho những lời mình từng thề thốt mà không sao giữ được. “Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi”. Trước hết, ta hãy dừng lại hai chữ dặm khuya. Nguyễn Du là thi sĩ bậc thầy trong việc nén chữ trong thơ lục bát, nghĩa là dùng ít chữ mà nói được nhiều ý. Dặm khuya không chỉ nói về thời gian là khuya, mà còn nói về không gian là trên đường đi, hàm ý cái cảnh đêm khuya Thuý Kiều chứng kiến là trên đường đi. Các nhà thơ ngày nay chỉ có thể viết được đêm khuya, canh khuya…giỏi lắm cũng chỉ đường khuya là cùng, chứ khó nghĩ ra được hai chữ dặm khuya như tác giả Truyện Kiều trên hai trăm năm trước. Học giả Đào Duy Anh cho in là ngắt tạnh mù khơi” và giải thích “chỉ tình trạng lặng ngắt, vắng tanh”. Tôi không đồng tình với cách giải thích này. Tôi nghiêng về “ngất tạnh, mù khơi” như một số bản Kiều khác, và coi đây là một tiểu đối, nên ta hiều được chức năng ngữ pháp và ý nghĩa của các từ. READ Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều của Nguyễn Du Danh từ mù giúp ta hiểu được chữ ngất cũng là một danh từ, có ý nghĩa là một thứ gì đó thường che khuất tầm mắt người nhìn như mù, như mây, như hơi sương… “Ngất tạnh” cũng giống như mưa tạnh, không còn ngất nữa, “mù khơi” là mù loãng ra, khai thông tầm nhìn. Vì “ngất tạnh, mù khơi” nên nàng Kiều mới nhìn thấy trăng. Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến logic trong thơ, không chỉ trong một câu, mà từ câu này tiếp nối với câu khác. Ở phần Đòan viên, Nguyễn Du đã tả cảnh Trời còn để có hôm nayTan sương đầu ngõ, vén mây giữa trờiHoa tàn mà lại thêm tươi Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Như nhiều bạn đọc đã chú ý về logic trong đoạn thơ này tan sương đầu ngõ để thấy hoa, vén mây giữa trời để thấy trăng. Và, “tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” cũng có ý nghĩa tương tự như “ ngất tạnh, mù khơi” để có thể nhìn thấy trăng. Nhưng cả câu lục “Dặm khuya ngất tạnh mù khơi” chỉ là sự gợi mở về không gian và thời gian, trọng lượng câu thơ tập trung ở câu bát “Thấy trăng mà thẹn những lời non sông”, làm người đọc thấy được từ sâu thẳm nỗi lòng của Thuý Kiều sự đau đớn, mối ân hận tiếc nuối, thẹn với vầng trăng thề bồi bởi chính mình vì hoàn cảnh mà thành người phụ bạc tình yêu. 4 – Thân lươn bao quản lấm đầuChút lòng trinh bạch từ sau xin chừa. Đây là lời hứa của Thuý Kiều khi bị Tú bà đánh đập vì tội lẻn trốn đi cùng Sở Khanh. Thông thường, khi con cái hoặc thuộc hạ mắc tội bị bố mẹ hoặc người có quyền đánh đập, thì người có tội thường hứa từ nay về sau xin chừa, không bao giờ dám phạm vào tội ấy nữa. Lòng trinh bạch là gì, phải chăng đấy cũng là một loại tội lội mà Thuý Kiều hứa “từ sau xin chừa”? Lòng trinh bạch là lòng trong trắng của Thuý Kiều. Nhưng sao không phải là tấm lòng trinh bạch mà lại là chút lòng trinh bạch? Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều chữ chút, để chỉ một ít, một vật nhỏ mọn với lối nói khiêm nhường như chút dạ, chút lòng, chút phận, chút thân, chút riêng, chút ước… Nhưng ở câu thơ này, “chút lòng trinh bạch” còn hàm chứa một nội dung khác lòng trinh bạch của Thuý Kiều đã bị Mã Giám Sinh cướp đi phần lớn trong đêm ở nhà trọ trước ngày theo xe để về Lâm Tri. “Tiếc thay một đoá trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”. Cái quý nhất của người con gái đã không còn nữa, nàng toan tự tử nhưng sợ liên luỵ đến bố mẹ, đành ngậm tủi nuốt hờn. Nhưng dù sao khi ấy nàng vẫn nghĩ Mã Giám Sinh mua mình về làm vợ, nên y có quyền làm điều đó. Khi về đến Lâm Tri, mới hay được sự tình và nàng quyết giữ lấy chút lòng trinh bạch ít ỏi còn lại. Ở đây “lòng trinh bạch” còn hàm chứa thêm ý nghĩa là nếp con nhà đã làm những gì với mục đích giữ lấy nó? Lần đầu khi Tú Bà bắt nàng tiếp khách, Thuý Kiều đã toan tự tử “một dao oan nghiệp đứt dây phong trần”, để cho mụ Tú phải “cắt người coi sóc rước thầy thuốc men” nàng mới tỉnh lại được. Khi tỉnh ra, nàng không tự tử tiếp, một mặt vì lời hứa hẹn giả dối của mụ Tú “tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà”, nhưng cái chính là nàng tin lời Đạm Tiên báo mộng “Số còn nặng kiếp má đào / Người dù muốn quyết trời nào đã cho”. Xem thêm Đề Thi Tuyển Sinh Lớp 10 Năm 2016 Đà Nẵng, Đáp Án Đề Thi Vào Lớp 10 Môn Toán Đà Nẵng 2016 Như vậy, nàng không thể dùng cái chết để giữ chút lòng trinh bạch ở chốn lầu xanh. Thế thì trốn theo Sở Khanh, một việc làm nàng không tin ở thành công mà phó thác cho số phận “ Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Mà xem con tạo xoay vần đến đâu”. Nhưng tránh đâu cho khỏi trời, nàng bị bắt về đánh đập “Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa”, làm cho nàng nhận ra một chân lý cay đắng ở chốn này, lòng trinh bạch là tội lỗi. Hay nói một cách khác, Tú Bà đã biết cách làm cho Thuý Kiều phải từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của nàng. Thì ra ở đời, con người phải đổi thay theo hoàn cảnh. Lòng trinh bạch là của quý, ai chẳng muốn giữ gìn, nâng niu, nhưng khi đã bước vào vũng bùn lầu xanh, đành từ bỏ thôi, mình đã thành con lươn chui rúc rồi thì làm sao giữ cho đầu khỏi lấm? Còn gì đáng thương hơn sự đầu hàng số phận đau đớn của Thuý Kiều? Post navigation

con ong đã tỏ đường đi lối về