🥳 Ca Dao Về Trái Cây

Qua các bài ca dao đã học và những hiểu biết của em về ca dao, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên 04/10/2022 by ScenicDeflation Đánh giá của bạn post Dưới đây, bạn sẽ tìm thấy bộ sưu tập những câu đố hay, đố vui về quả, trái cây của chúng tôi thu thập trong nhiều năm t Những câu đố về Quả, Trái Cây: 30+ câu đố hay, vui - Dr. Khỏe Review Những câu ca dao Việt Nam hay về chống áp bức, bóc lột. Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua [1], Con vua thất thế lại ra quét chùa. Con ơi nhớ lấy điều này, Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan [2]. Đồn rằng quan tướng [3] có danh Nơi đây là vựa trái cây cung cấp các loại trái cây đặc sản cho Tiền Giang. Rất nhiều du khách đến đây tham quan và thưởng thức các loại trái cây ở đây. Du khách đến với vườn trái cây Vĩnh Kim tham quan sẽ cảm nhận được sự mát mẻ, không gian trái cây tươi mát và Bài mẫu phân tích ca dao than thân cực hay – Văn mẫu lớp 10; Bài mẫu phân tích ca dao than thân cực hay – Văn mẫu lớp 10; Bài mẫu phân tích ca dao than thân cực hay – Văn mẫu lớp 10; 12 lợi ích khi uống chanh ấm mỗi buổi sáng khiến bạn bất ngờ Quả cam và chanh. Trong các loại trái cây tốt cho da bị dầu, thì không có loại nào tốt bằng quả cam cùng với quả chanh. Là 2 loại trái cây được biết đến với hàm lượng vitamin C giàu có, cùng chất chống oxy hóa cao. Chúng thường được dùng trong các nguyên liệu làm đẹp da Những câu ca dao tục ngữ hay nhất về thầy cô ngày 20/11 Ca dao tục ngữ về thầy cô Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.75 KB, 10 trang ) Ca dao tương tự. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sàng. ~*~. Ai mà phụ nghĩa quên công, Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. Những bài ca dao - tục ngữ về "trái cây ":Ai không ăn gai đầu mùa là dại, ai không ăn mít trái mùa là ngu 85gpaOs. Những bài ca dao - tục ngữ về "cây dứa" Cây tùng cây bá anh chê Cây tùng cây bá anh chê, Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng. Còn duyên nón vải quai tơ Còn duyên nón vải quai tơ Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong Trồng dừa ra đọt chặt tàu Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ anh đổi dạ quay đầu bỏ em Dị bản Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh Tới đây ngồi tạm lá dừa Tới đây ngồi tạm lá dừa Chiếu trải mặc chiếu anh chưa dám ngồi Nhà tôi có dãy vườn hoa Nhà tôi có dãy vườn hoa Có ba dãy nhãn, có ba dãy dừa Dù anh đi sớm, về trưa Sao anh chẳng nghỉ dãy dừa nhà tôi Gió đưa bụi chuối sau hè Gió đưa bụi chuối sau hè Bụi môn trước cửa ai dè em hư Gió đưa gió đẩy lá dừa Lấy ai thì lấy xin chừa em ra Tam Quan ít mít nhiều dừa Tam Quan ít mít nhiều dừa Nhiều cô gái đẹp mà chưa có chồng Khen ai khéo nặn nên dừa Khen ai khéo nặn nên dừa Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi Bến em có gốc dừa tơ Bến em có gốc dừa tơ Đêm trăng em đứng, em chờ đợi ai Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Thiếp xin gõ nhịp để chàng lựa dây Bao giờ rừng quế hết cây Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình Anh về không lấy gì đưa Anh về không lấy gì đưa Còn một trái dừa sót lại trên cây Khuyên anh ở lại trên này Để em về dưới chịu rầy cho anh. Ăn dừa ngồi gốc cây dừa Ăn dừa ngồi gốc cây dừa, Cho em ngồi với, cho vừa một đôi Thơm không ngon cũng tiếng thơm vườn Thơm không ngon cũng tiếng thơm vườn Dầu gá duyên không đặng cũng để đường xuống lên Trời mưa lộp bộp lá dừa Trời mưa lộp bộp lá dừa Bợp anh ba bợp cho anh chừa đi đêm Tưởng rằng cây dứa không gai Tưởng rằng cây dứa không gai Ai ngờ gai dứa lại dài hơn chông Em nói dối anh, em chửa có chồng Con ai em bế em bồng trên tay? Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau Đất thiếu trồng dừa Đất thừa trồng cau Dị bản Thiếu đất trồng dừa Thừa đất trồng cau. Gió đưa gió đẩy lá dừa Gió đưa gió đẩy lá dừa, Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra Nắng lên cho héo lá lan Nắng lên cho héo lá lan Cho đáng kiếp chàng, phụ rẫy tình xưa Nắng lên cho héo ngọn dừa Đánh chết chẳng chừa cái thói đổi thay Nắng lên cho héo nhánh mai Tui rủa tối ngày kẻ chẳng thủy chung Ngỡ là cây dứa không gai Ngỡ là cây dứa không gai Chả hay gai dứa lại dài hơn chông Anh nghĩ em chưa có chồng Anh đi qua cửa em bồng con ra Đứa con da trắng như ngà Bố mẹ chẳng giống hóa ra giống mình Đầu làng có một cây đa Đầu làng có một cây đa Cuối làng cây thị, ngã ba cây dừa Dầu anh đi sớm về trưa Anh cũng nghỉ mát cây dừa nhà tôi Anh vào anh chẳng đứng chẳng ngồi Hay là anh phải duyên tôi anh buồn Anh buồn anh chẳng muốn đi buôn Một vốn bốn lãi anh buồn làm chi Tôi là con gái nhỡ thì Chẳng thách tiền cưới làm chi bẽ bàng Rượu hoa chỉ lấy muôn quan Trâu bò chín chục họ hàng ăn chơi Vòng vàng chỉ lấy mười đôi Nhiễu tàu trăm tấm tiền rời một muôn Nào là của hỏi của han Ấy tiền dẫn cưới anh toan thế nào? Dị bản Đầu làng có một cây đa Cuối làng cây thị, ngã ba cây dừa Dù anh đi sớm về trưa Xin anh nghỉ bóng mát cây dừa nhà em! Tùng bá Cây tùng tòng và cây bách bá, trong văn chương thường được dùng để tượng trưng cho những người có ý chí vững mạnh, kiên cường, thẳng thắn. Đa Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 cây nhiều rễ, “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.” Cây đa Tân Trào Dứa Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá. Cây dứa đang ra quả Khoai môn Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo. Cây và củ khoai môn Tam Quan Thị trấn phía bắc tỉnh Bình Định, thuộc huyện Hoài Nhơn. Đây nổi tiếng là "xứ dừa" của Bình Định. Dừa Tam Quan Có bản chép dựng hoặc tạc. Có bản chép cho vừa lòng nhau. Đây cũng là hai câu chữ Nôm trong bức tranh Tết tên Hứng dừa Kĩ thuật của người An Nam - Henri Oger. Tranh Hứng dừa Phượng cầu hoàng Nghĩa là "chim phượng trống tìm chim phượng mái," một khúc đàn được Tư Mã Tương Như gảy để tỏ tình với Trác Văn Quân. ây là một khúc đàn tình tứ lãng mạn Phượng hề phượng hề quy cố hương Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng Thời vị ngô hề vô sở tương Hữu diện thục nữ tại khuê phường Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường Hà duyên giao cảnh vi uyên ương Tương hiệt ương hề cộng cao tường Trong Bích Câu Kỳ ngộ có câu Cầu hoàng tay lựa nên vần Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào Quế Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý Quế chi trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ. Thu hoạch và phơi quế Rầy La mắng phương ngữ. Gá duyên Kết thành nghĩa vợ chồng. Bợp Tát phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chửa Chưa từ cổ, phương ngữ. Đất thiếu nghĩa là nhà còn khó, nên trồng dừa để có cái ăn. Ngược lại, đất thừa nghĩa là nhà khá giả, có thể trồng cau để làm cảnh. Có nơi giảng đây là kinh nghiệm trồng dừa và cau, do đặc điểm sinh trưởng khác nhau nên tùy theo điều kiện đất đai mà trồng cho thích hợp. Mai vàng Một loài cây cho hoa năm cánh màu vàng rực, được trưng bày rất nhiều ở miền Trung và miền Nam nước ta vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán. Hoa mai vàng gọi tắt là hoa mai và hoa đào là hai loài hoa tượng trưng cho mùa xuân. Hoa mai vàng Thị Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được. Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh Quả thị Muôn Mười nghìn từ cũ, đồng nghĩa với vạn. Quan Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý cổ tiền, một quan bằng 60 tiền 600 đồng kẽm. Với tiền gián sử tiền, một quan bằng 360 đồng kẽm. Nhiễu Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát. Dẫn cưới Đưa lễ đến nhà gái để xin cưới. Các loài hoa luôn là chủ đề được khai thác rất nhiều trong văn học. Cùng điểm qua các câu tục ngữ, ca dao về hoa hay nhất trong bài viết bên dưới nhé!Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa MaiCâu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa ĐàoCâu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa HồngCa Dao Tục Ngữ Về Hoa PhượngCa Dao Tục Ngữ Về Hoa SenCa Dao Tục Ngữ Về Hoa LanCa Dao Tục Ngữ Về Hoa NhàiCa Dao Tục Ngữ Về Hoa GạoCa Dao Tục Ngữ Về Hoa QuảTặng bạn Mã Giảm Giá Lazada, Shopee, Tiki hôm nayDeal HotDANH SÁCH COUPONĐang cập nhậtĐang cập nhậtHoa mai là một loài hoa có 5 cánh và màu vàng, mỗi mùa xuân sang tết đến thì hoa mai lại nở và tỏa sắc khoa thắm. hoa mai là một trong hai loài hoa tượng trưng cho tết của nước ta, hoa mai thường được trưng trong tết của người miền Trung và người miền Nam. Dưới đây trình làng đến bạn đọc Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa Mai .Đỉa đâu đỉa đeo chưng hạc Ác đâu ác đậu nhành maiƯớc gì em hóa ra tranh Anh hóa ra bút vẽ cành hoa maiChim vàng đậu nhánh mai vàng Vào vòng hoa nguyệt, không thương chàng còn thương aiTrúc xa mai thì hoài lứa trúc Anh hỏi mai rằng đã có nơi mô nương tựa hay chưa Có nơi mô nương tựa khi nắng khi mưa Hay còn ôm duyên đi sớm về trưa một mình?Bước lên đèo Cả Thấy mả ông Cao Biền Có đôi chim hạc đang chuyền nhành đậu nhành mai, mai oằn liễu té, Anh có vợ rồi, kêu em vô làm bé sao nênThẩn thơ tựa gốc mai già Hỏi thăm bà Nguyệt có nhà hay không?Chim loan, chim phụng đi đâu Để cho chim cú đậu đầu cành maiDuyên trúc trắc, nợ trục trặc Thiếp với chàng bất đắc vãng lai Sàng sàng lệ nhỏ cành mai Dẫu không thành đường chồng vợ, cũng nhớ hoài nghĩa xưaĐợi chờ trúc ở với mai Đợi chờ anh ở với ai chưa chồngChiều chiều có kẻ thất tình, Dựa mai mai úa, dựa đình đình xiêu.– Một nhánh trảy, năm bảy cành mai Một nhánh mai, trăm hai nhánh thị Chữ văn, chữ sĩ, anh đối trọn trăm câu Đối rồi, anh hỏi chị em đâu? Nếu chị em không có, anh bắt em hầu mười năm – Một bụi tre sinh năm, ba bụi trảy Một nhánh trảy sinh năm, bảy cây viết son, Em có gả chị cho anh thì nhân nghĩa vẫn còn Em mà không gả, anh bắt giữ con trọn đờiChim chuyền nhành ớt rớt xuống nhành mai Vợ chồng xa cách làm ai cũng buồnAi đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm? Tìm em như thể tìm chim Chim bay bể Bắc anh tìm bể Đông Tìm bể ông thấy lông chim nhạn Tìm bể cạn thấy đàn chim di Ai mang nhân ngãi ta đi Thì mang nhân ngãi ta về cho ta!Không chỉ có Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa, chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Ca Dao Tục Ngữ Về Truyền Thống Văn Hóa 🍀Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa ĐàoCâu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa Đào, đây là loại hoa tượng trưng cho ngày tết và thông dụng ở miền bắt nước ta. Đi vào trong ca dao dân ca, hoa đào mang một vẻ đẹp khiến con người say hoa đua nở tưng bừng Ước gì được kẻ trỏ đường cho em giữa chốn vườn đào Ướm lời hỏi bạn nghèo giàu thương ai?Đầu làng cây duối, Cuối làng cây đa Ngõ em cây nhãn, Ngõ ta cây đào Có thương mới bước chân vào Không thương có đón có chào cũng khôngTrên cây lê dưới vịn cây đào Ba bốn nơi người nghĩa, bên nào cũng thươngMảng coi ong bướm quấn quít cây đào Mảng coi lê lựu quên chào bạn xưaĐi ngang thấy búp hoa đào Muốn vào mà sợ bờ rào lắm gaiCành đào lá liễu phất phơ Đường đi khuất nẻo ai ngờ gặp nhau Gặp nhau ăn một miếng trầu Còn hơn đám cưới mổ trâu ăn mừngĐào thắm thì đào lại phai Bồ nâu dãi nắng thì mài chẳng điMấy năm nay cách lựu xa đào Ngày nay gặp mặt biết chào làm saoEm nói nhà em trước liễu sau đào Muỗi chui không lọt, lẽ nào em có conLàm thinh kẻo thế gian ngờ Lòng đây nhớ đấy biết cơ hội nào Ai đưa mận đến với đào Ai đem tính đấy buộc vào tình đây Tính, tình dan díu lâu nay Nên ra tình sẽ giãi bày tính nghe Tình còn đây sao tính lại về Ai làm tình, tính say mê thế nàyĐào Nhật Tân, phân Cổ NhuếĐôi ta là nợ là tình Là duyên là kiếp đôi mình kết giao Em như hoa mận hoa đào Cái gì là nghĩa tương giao hỡi nàng?Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai đào lá liễu phất phơ Lấy ai thì lấy đợi chờ làm chi?Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa HồngGiới thiệu Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa Hồng hay và ý nghĩa với nhiều câu nói hay về loại hoa tượng trưng cho người phụ nữ mang vẻ đẹp kiều diễm này .Em như cái búp hoa hồng Anh giơ tay uốn bẻ về bồng nâng niuAi kia sao khéo hoài công Tham hái hoa hồng nên mắc phải gaiDầu bông quế, dầu bông hường Hải đường thơm thiệt là thơm Tóc em như lông con chó xồm Xức dầu thì xức, ai thèm dòm bớ em HaiRắn trun khác rắn rằn ri Bông lan chẳng dám sánh chi hoa hồng Em là con gái ở đồng Người còn đói rách, em không lượt làTrồng hường quên đậy quên che Tưởng đâu hường héo ai dè hường tươi Trăm năm không bỏ nghĩa người Chim kêu trên núi, cá cười dưới sôngMiệng cười như cánh hoa nhài Như chùm hoa nở như tai hoa hồng Ước gì được đấy làm chồng Để em làm vợ em trông cậy nhờThân em như cánh hoa hồng Lấy phải thằng chồng như cứt bò là gái út nhất nhà Lời ăn tiếng nói thật thà khoan thai Miệng cười như búp hoa nhài Như nụ hoa quế như tai hoa hồng Ước gì anh được làm chồng Để em làm vợ, tơ hồng trời xeAi làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng Ai đi muôn dặm non sông Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy?Đọc thêm Ca Dao Tục Ngữ Nói Về Thiếu NhiCa Dao Tục Ngữ Về Hoa PhượngCa Dao Tục Ngữ Về Hoa Phượng, loại hoa tượng trưng cho mùa hè, mùa chia tay. Mời bạn cùng theo dõi câu ca dao rực rỡ và giàu ý nghĩa dưới đây .️Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa SenQua ngàn năm lịch sử dân tộc, người Việt có nhiều thân mật và gắn bó với hoa sen hơn những loại hoa khác. Trên toàn nước Nước Ta, từ Bắc vào Nam, đâu đâu cũng có hoa sen. Từ bao đời nay, hoa sen đã đi vào lòng, vào đời sống, và văn hoá của người Việt qua những câu Ca Dao Tục Ngữ về thiên nhiên. Cùng đọc những câu hay tài như thể bách hoa Hoa sen thơm ngát hoa trà đẹp tươiLên chùa bẻ một cành sen Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng sen sao khéo giữ màu, Nắng nồng không nhạt, mưa dầu không chiều vịt lội bàu sen, Để anh lên xuống làm quen ít ngàyBấy lâu còn lạ chưa quen Hỏi hồ đã có hoa sen chưa hồ? Hồ còn leo lẻo nước trong, Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợi sen!Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùnHôm qua tát nước đầu đìnhBỏ quên cái áo trên cành hoa sen Em được thì cho anh xin Hay là em để làm tin trong nhà?Bấy lâu anh mắc đi mô, Thả sen không thấy tới hồ thăm sen – Bấy lâu anh bận việc nhà, Tai nghe phảng phất em đà có đôi. Tưởng thả sen thì bông tươi lá tốt, Ai hay nửa chừng lá rụng, bông khô Không còn sinh hoa nở nhụy, nỏ đáo tới hồ làm chi!Cổ tay em trắng như ngà Đôi mắt em liếc như là dao cau Nụ cười như thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu như thể hoa senRủ nhau ra tắm hồ sen, Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình. Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nayAi về Đồng Tháp mà xem Bông sen, bông súng nở chen lúa vàngNgày thời ngậm búp hoa sen Đêm thời em gạt ngọn đèn em trôngNgày rày anh những đi mô Trồng sen anh nỏ xuống hồ thăm senĐưa chân sa xuống ruộng đầm Đắng cay chịu vậy trót nhầm thì thôi Chàng từ, thiếp cũng xin thôi Hồ sen tát cạn, ai hôi thì vàoCa Dao Tục Ngữ Về Hoa LanCa Dao Tục Ngữ Về Hoa Lan, vẻ đẹp thanh khiết của loại hoa này đã đi vào thơ ca dân gian với những hình tượng thật thâm thúy và giàu ý nghĩa tượng trưng .Em tiếc con dao bé mà lại sắc thay Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm Em trái nhân duyên, em chẳng được cầm Để cho người khác được cầm dao loan Được như hoa huệ, hoa lan Thì em cũng chẳng phàn nàn làm chi Được như hoa cúc hoa quỳ Thì em cũng bõ một thì chơi hoaMai lan cúc trúc, không đúc lại thành hàng Để lửng lơ bồn chậu, muộn màng nụ bôngRượu ngon chưa uống đã say Lựu, lan chưa bẻ đã bay mùi nồngLan huệ sầu ai lan khô huệ héo Lan huệ sầu tình trong héo ngoài tươiGió đưa bông lách, bông lan Bông lê, bông lựu, đố nàng mấy bông?Trời ơi, nắng miết không mưa Lan khô, huệ héo thảm chưa quớ trời?Một mai cúc ngã lan quỳ, Bậu lo thân bậu lo gì thân qua?Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa NhàiCa Dao Tục Ngữ Về Hoa Nhài, loại hoa mang hương thơm nhẹ nhàng thường được ví von với nét đẹp, phẩm giá và đức hạnh của người con gái .Hoa nhài thoang thoảng bay xa Mùi thơm khác hẳn, thật là có hương Hoa cúc không sợ thu sương Để màu ẩn dật, mùi hương đậm đà Hoa sen mùa hạ nở ra Ở bùn mà lại không pha sắc bùn Hoa mai chót vót đỉnh non Trắng như bông tuyết hãy còn kém xa Mẫu đơn phú quý gọi là Hải đường sắc đẹp nhưng mà không hương Hoa quỳ nhất ý hướng dương Hoa liễu trong trắng, trông thường như bông Phù dung mọc ở bên sông Hoa đào gặp được gió đông mới cườiCàng thắm thì lại càng phai, Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm đầu giắt bông hoa lài Không cho người hái, nó hoài hoa đi Trên đầu hoa để làm gì? Làm thân con gái chỉ có một thì mà thôiTiếc đám phù dung mọc chung cỏ dại Cũng tỷ như hoa lài cặm phải chỗ dơ– Thiếu chi hoa lý hoa lài, Mà anh đi chọn hoa khoai trái mùa – Hoa khoai chịu nắng chịu mưa, Hoa lài hoa lý chưa trưa đã sầuAnh đừng tham cái bông quế, bỏ phế cái bông lài Mai sau quế rụng, bông lài thơm xaTrăm năm giữ trọn lời nguyền Sóng xô mược sóng đảo thuyền mược ai Tình em nghĩa rộng lâu dài Lòng em nào phải hoa lài trôi sôngBa cô anh lạ cả ba Bốn cô anh lạ cả bốn, biết là quen ai? Anh chỉ quen một cô da trắng tóc dài Miệng cười như cánh hoa nhài nở hè gió mát trăng thanh Em ngồi canh cửi còn anh vá chài Nhất thương là cái hoa lài Nhì thương ai đó áo dài tấm thân Gặp người sao có một lần Để em thương nhớ tần ngần suốt nămTrách cha trách mẹ em lầm Cho nên em phải khóc thầm hôm mai Trách chàng chẳng dám trách ai Trách chàng chê nụ hoa nhài không thơmĐọc thêm Những câu ca dao tục ngữ về đạo đức con ngườiCa Dao Tục Ngữ Về Hoa GạoCó một loại hoa từ thời xưa đã gắn liền với hình ảnh làng quê Nước Ta, loại hoa với sắc đỏ rực rỡ mà cũng thật bình dị. Cảm nhận vẻ đẹp của loại hoa này qua Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Hoa Gạo ngay sau đây .Em như hoa gạo trên cây Anh như một đám cỏ may bên đường Lạy trời cho cả gió sương Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ mayBao giờ đom đóm bay ra Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừngTrèo lên cây gạo cao cao Bước xuống hội Gióng vui sao vui vầy Giáo gươm cờ xí trùng trùng Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyềnAnh trèo lên cây táo Anh sang qua cây gạo Mồ hôi chưa ráo Áo cụt chưa khô Tai nghe em rớt xuống ao hồ Tay anh bưng bát thuốc cam lồ cứu em Hai tay cầm bốn củ khoai lang Thiếp nói với chàng đến mai hãy nướng Cực chẳng đã mới ra thân làm mướn Một ngày ba bốn mươi đông, không sướng chút chiHồn cây đa, ma cây giờ cho đến tháng ba Hoa gạo rụng xuống bà già cất lên cây gạo cao cao Thấy cây gỗ mục càng bào càng bong Trách người làm mối không xong Để cho đôi lứa long đong thế lên cây gạo con con Muốn lấy vợ giòn phải nặng tiền cheo Nặng là bao nhiêu? Ba mươi quan quý. Mẹ anh có ý mới lấy được nàng Mai mẹ anh sang, mẹ nàng thách cưới Bạc thì trăm rưỡi, tiền chín mươi chum Lụa thì chín tấm cho dày Trâu bò chín chục đuổi ngay vào làng. Anh sắm được anh mới hỏi nàng Nếu không sắm đủ chớ vào làng làm chi!Cây gạo có ma Cây đa có thầnCa Dao Tục Ngữ Về Hoa QuảCa Dao Tục Ngữ Về Hoa Quả, những loại trái cây bình dị nơi vườn quê thôn vắng cũng đã đi vào văn học dân gian mang lại một bức tranh thanh bình và yên hoa có quả mới hay, Một trăm thứ quả em nay đã từng. Cứng thì quả ổi còn ương, Mềm thì quả thị chín vàng đã Bình dầu nắng hay mưa Bưởi thơm, bòng ngọt, anh chưa kịp vềBến Tre dừa ngọt sông dài Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi em ba dải cù lao Có dừa ăn trái có cau ăn đường, vú sữa ngổn ngang, Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba TriDừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi Mà lá tươi xanh mãi đến giờMưa tháng bảy gãy cành trám Nắng tháng tám rám cành bưởiBa năm mít mới đóng đài Hoa thơm nở rộ, hoa xoài nở đuaThân em như quả mãng cầu Đơm lên quả tử hạc chầu lọng cheDa dẻ vàng khè Là anh chàng thị Tròn như lợn ỉ Là quả dưa vàng Nằm đất lang thang Là anh dưa chuột Mồm nói ngọt xớt Là mấy cô hồng Xù xì lắm lông Là anh cu dứa Da đỏ như lửa Là thằng ớt cay Má mịn hây hây Cô mơ cô mận Ruột thì đỏ thắm Là cái ả đào Hay rụng xuống ao Thằng sung chua chát Da vàng trơn mát Là quýt với cam Chua rụng răng hàm Cô chanh cô khế Xinh tròn be bé Em táo đầu nhà Con bảy con ba Chị dừa mắn đẻ Hàm răng to khoẻ Là bác chuối tiêu Nằm đất mốc meo Là anh chàng bí Thon như cái bị Là chị bầu xanh Dáng dài thanh thanh Cô xoài cô mướp Mình dài gai góc Cụ mít nhà ta Đỏ bóng nước da Cà chua chính cống Vỏ xanh ong óng Chính thị bà cau Nam nám da nâu Hồng xiêm, mắc cọp Xù xì bỏng rộp Mướp đắng eo ôi Ngọt mát cả môi Xin chào cô nhãn Mặt mày đỏ thắm Cô vải đang chờ Mắt mở lơ mơ Thằng na buồn ngủ. Những bài ca dao - tục ngữ về "cây đa" Con chim đa đa đậu nhánh đa đa Con chim đa đa đậu nhánh đa đa Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa Mai sau cha yếu mẹ già Nồi cơm bắc xuống, ấm trà bắc lên. Tháng bảy ông thị đỏ da Tháng bảy ông thị đỏ da Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời Ông mít đóng cọc đem phơi Ông da rụng rời đỏ cả chân tay Cây tùng cây bá anh chê Cây tùng cây bá anh chê, Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng. Đầu làng cây duối Đầu làng cây duối, Cuối ngõ cây đa Đàng cái ngã ba, Anh đây thợ hàn Con gái mười bảy hăm ba Hai mươi, hăm mốt đem ra anh hàn Nụ này lớn lỗ hao than Đồng đâu anh đổ cho tràn lỗ ni Hết đồng, thì anh pha chì Anh hàn cho một chặp chì ì mặt ra Đầu làng cây duối Đầu làng cây duối, Cuối làng cây đa Cây duối anh để làm nhà Cây đa bóng mát nàng ra anh chào Đôi tay nâng cái khăn đào Bằng khi hội hát anh trao cho nàng Túi anh những bạc cùng vàng Để anh kéo nhẫn cho nàng đeo tay Dù ai bấu chí nàng bay Thì nàng phải giữ nhẫn này cho anh Dù ai bẻ lá vin cành Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò Đầu làng cây duối Đầu làng cây duối, Cuối làng cây đa Ngõ em cây nhãn, Ngõ ta cây đào Có thương mới bước chân vào Không thương có đón có chào cũng không Phượng hoàng đậu cành cây đa Phượng hoàng đậu cành cây đa Sa cơ thất thế lủi theo bầy gà Vị ông thần, nể cây đa Vị ông thần, nể cây đa Cây đa tróc gốc, cái miễu chổng khu Cây đa tróc gốc, cái miễu chổng khu Gặp em đây anh giỡn lu bù Chừng nào chồng của em hay được thì ở tù anh cũng ưng Cây đa là cây đa cũ Cây đa là cây đa cũ Bến đò là bến đò xưa Nay chừ người khác vô đưa Oan ơi, oan hỡi, tức chưa bạn tề! Dị bản Cây đa là cây đa bến cũ, Bến cũ là bến cũ đò xưa, Ôi thôi rồi người khác sang đưa, Thiếp nhìn chàng lưng lẻo, nước sa xuống như mưa hỡi chàng Cây đa Bình Đông, cây đa Bình Tây Cây đa Bình Đông, cây đa Bình Tây Cây đa Xóm Củi, cây đa chợ Đuổi Năm bảy cây đa tàn Trát quan trên gởi giấy xuống làng Cấm điếm, cấm đám, cấm tòng tam tụ ngũ Cấm đủ phu thê Cấm không cho trai tựa gái kề Để cho người cũ trở về với duyên xưa Lạy trời thi đậu Thám hoa Lạy trời thi đậu Thám hoa Trở về đền ơn đáp nghĩa cho cây đa bến đò Con ve kêu trên cành mít mục Con ve kêu trên cành mít mục Con sùng nó đục trên nhánh cây đa Bớ người có mẹ không cha Vô đây kết nghĩa giao hòa cùng anh Lá đa rụng xuống sân đình Lá đa rụng xuống sân đình Lơ thơ có kẻ thất tình mà hư Thương nhau ở dưới gốc đa Thương nhau ở dưới gốc đa Còn hơn ở cả ngôi nhà trăm gian Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn, Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn Tình xưa còn đó, ngỡ ngàng nan phân Con đò với gốc cây đa Con đò với gốc cây đa Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò Anh khôn anh hỏi rễ đa Anh khôn anh hỏi rễ đa Em đần em hỏi cỏ gà cũng thông Hỡi chàng da trắng tóc dài Hỡi chàng da trắng tóc dài Em đã chờ đợi một hai năm trời Cho nên mặt ủ chẳng tươi Sợ chúng bạn cười chẳng dám nói ra Nhớ chàng lòng những xót xa Làm thơ mà dán cây đa giữa đồng Phòng khi qua lại chàng trông Thời chàng mới thấu nõi lòng nhớ thương Mối sầu là mối tơ vương Ai mà gỡ khỏi thiếp thương trọn đời Trên vườn rau cải, dưới lại rau cần Trên vườn rau cải, dưới lại rau cần Cây mơ cây mận ở gần bờ ao Đầu làng có cây đa cao Trăng thanh gió mát lọt vào tận nơi Nhà anh có cái giếng khơi Nhác trông xuống giếng có đôi cành hồng Em nay là gái chưa chồng Anh không có vợ, dốc lòng chờ nhau Đa đa Còn gọi là gà gô, một loài chim rừng, thường sống trên cây hoặc trong các bụi rậm trên núi cao, ăn sâu bọ, đuôi ngắn. Đa đa thường bị săn bắt để lấy thịt. Chim đa đa Đa Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 cây nhiều rễ, “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.” Cây đa Tân Trào Thị Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được. Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh Quả thị Mít Loại cây ăn quả thân gỗ nhỡ, lá thường xanh, cao từ 8-15m. Cây ra quả vào mùa xuân, quả chín vào mùa hè. Vỏ quả có gai xù xì, ruột chứa nhiều múi, vị ngọt, có loại mít dai và mít mật. Mít là loại cây quen thuộc ở làng quê nước ta, gỗ mít dùng để làm nhà, đóng đồ đạc, thịt quả để ăn tươi, sấy khô, làm các món ăn như xôi mít, gỏi mít, hạt mít ăn được, có thể luộc, rang hay hấp, xơ mít dùng làm dưa muối gọi là nhút, quả non dùng để nấu canh, kho cá... Quả mít Tùng bá Cây tùng tòng và cây bách bá, trong văn chương thường được dùng để tượng trưng cho những người có ý chí vững mạnh, kiên cường, thẳng thắn. Dứa Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá. Cây dứa đang ra quả Duối Loại cây mộc, cỡ trung bình, thân khúc khuỷu, nhiều cành chằng chịt, có mủ trắng. Lá duối ráp dùng làm giấy nhám làm nhẵn mặt gỗ. Duối được dùng làm vị thuốc và trồng trong chậu nhỏ làm cây cảnh. Đàng Đường, hướng phương ngữ Trung và Nam Bộ. Ni Này, nay phương ngữ miền Trung. Bài này có lẽ là dị bản của bài Năm xưa anh ở trên trời. Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi. Phượng hoàng Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng hay phụng còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao. Một hình vẽ chim phượng hoàng Miếu Trung và Nam Bộ cũng gọi là miễu, một dạng công trình có ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng trong văn hóa nước ta. Nhà nghiên cứu Toan Ánh trong Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, cho rằng Miếu cũng như đền, là nơi quỷ thần an ngự. Miếu nhỏ hơn đền, thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài… Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng có tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao… Miếu Nhị Phủ ở Sài Gòn Khu Đít, mông phương ngữ. Chừ Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" phương ngữ Trung và Nam Bộ. Tề Kìa phương ngữ miền Trung. Bình Đông Một địa danh nay thuộc quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, là một khu vực đóng vai trò quan trọng với Sài Gòn - Chợ Lớn hình thành cách đây 200 năm. Tại đây có chợ Bình Đông, một ngôi chợ tấp nập, trên bến dưới thuyền. Chợ hoa ở bến Bình Đông Chợ Lớn Tên chính thức là chợ Bình Tây, còn gọi là chợ Lớn mới để phân biệt với chợ Lớn cũ nay không còn, hiện nay thuộc địa bàn quận 6, giáp ranh quận 5 và quận 10, được xem là trung tâm mua bán của người Việt gốc Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Chợ được Quách Đàm - một phú thương người Hoa - xây dựng vào năm 1928 nên còn được gọi là chợ Quách Đàm, kiến trúc chợ mang nhiều nét Á Đông pha lẫn tân kì. Chợ Bình Tây ngày trước Xóm Củi Địa danh xưa là một ấp, nay là tên đường tại phường 11, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên như vậy vì trước đây khu vực này chuyên bán củi đun bếp. Tại đây có các địa danh liên quan như chợ Xóm Củi, rạch Xóm Củi, cầu Xóm Củi... Rạch Xóm Củi ngày xưa Chợ Đũi Còn bị đọc trệch thành chợ Đuổi, ra đời đầu thế kỷ 19 tại phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, bán các thứ hàng thô dệt bằng tơ gốc đũi. Năm 2005, chợ này đã bị giải tỏa. Chợ Đũi ngày xưa qua tranh kí họa Trát Giấy truyền lệnh của quan lại ngày xưa. Từ chữ Hán 札 nghĩa là cái thẻ, vì ngày xưa không có giấy nên mọi mệnh lệnh muốn truyền đạt phải viết vào miếng gỗ nhỏ. Điếm Từ Hán Việt, nghĩa rộng là hàng quán, nhà trọ... Tòng tam tụ ngũ Tụ tập đông người. Một thành ngữ tương đương là Tụm năm tụm bảy. Phu thê Vợ chồng từ Hán Việt. Có âm dương, có vợ chồng, Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê. Cung oán ngâm khúc Thám hoa Học vị của người đỗ thứ ba trong khoa thi Đình thời phong kiến sau Trạng nguyên và Bảng nhãn. Sùng Bị sâu, bị thối. Sùng cũng có nghĩa là sâu. Nghĩa giao hòa Nghĩa vợ chồng dùng trong ca dao dân ca. Nan phân Khó phân giải, giãi bày. Cỏ gà Còn có các tên khác là cỏ chỉ, cỏ ống, một loại cỏ sinh trưởng rất mạnh, bò kết chằng chịt với nhau thành thảm dày đặc. Trẻ em ở nông thôn có trò chơi đơn giản từ cỏ gà gọi là "chọi cỏ gà" hay "đá cỏ gà." Cỏ gà Theo kinh nghiệm dân gian, khi nào rễ si, rễ đa, cỏ gà, cỏ gừng... nảy mầm trắng tức là trời sắp mưa. Rau cần Một loại rau xanh thường được nhân dân ta trồng để nấu canh, xào với thịt bò, hoặc làm vị thuốc. Canh cá nấu cần Mơ Một loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, có hoa trắng hoặc đỏ, nở vào mùa xuân. Quả mơ vị chua chát, dùng để làm nước ép, ướp đường, làm ô mai, làm rượu, mứt, hoặc chế biến thành các món canh. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. Quả mơ Mận Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, hoa trắng, nở vào mùa xuân. Quả mận vị chua ngọt, có loại vỏ màu tím, xanh nhạt, vàng, hay đỏ. Các bộ phận của cây mận như quả, rễ, nhựa, lá, nhân hạt... đều có tác dụng chữa bệnh. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. Mận tam hoa ở Bắc Hà, Lào Cai

ca dao về trái cây